Mông Cổ bí sử là tác phẩm văn học viết đầu tiên của người Mông Cổ. Đây cũng là một tác phẩm sử học, ghi chép quá trình hình thành và phát triển của các bộ tộc trên thảo nguyên, từ giai đoạn khởi thủy cho đến năm thứ mười hai đời Nguyên Thái Tông Oa Khoát Đài (1240). Trong đó, nổi bật hơn cả là sự trỗi dậy của Đế quốc Mông Cổ với những cuộc chinh phạt khắp bốn phương do Thành Cát Tư Hãn chỉ huy.
Đúng như tên gọi, bộ sách này vốn là tài liệu bí mật của Mông Cổ và sau đó là triều đình nhà Nguyên, chỉ gìn giữ trong hoàng cung, không cho truyền ra bên ngoài. Sau khi lật đổ nhà Nguyên và chiếm lấy Đại Đô, nhà Minh tìm thấy bộ Mông Cổ bí sử. Đáng chú ý là toàn văn viết bằng chữ Hán, các văn nhân người Hán nhìn chữ nào cũng biết, nhưng đọc lên thì chẳng hiểu được câu nào!
Thì ra sách này dùng chữ Hán để ghi âm tiếng Mông Cổ, tựa đề viết tám chữ Mang Hoát Luân nữu sát thoát sát an (Mongqol-un niuča tobča’an, 忙豁侖紐察脫察安). Trong đó, Mang Hoát Luân (Mongqol-un, 忙豁侖) là Mông Cổ, nữu sát (niuča, 紐察) có nghĩa là bí mật và thoát sát an (tobča’an, 脫察安) có nghĩa là tài liệu. Cả cụm từ nghĩa là“Tài liệu bí mật của Mông Cổ”.
Có thể nói, Mông Cổ bí sử là một bộ sách hết sức đặc biệt, được nhà văn Kim Dung gọi là “hữu tự thiên thư”. Trong bài Hậu ký của tiểu thuyết Xạ điêu anh hùng truyện, Kim Dung viết:
Trên thế giới có rất nhiều học giả dùng cả đời để nghiền ngẫm và nghiên cứu, công bố hàng loạt luận văn, sách chuyên đề, giải thích âm đọc, thậm chí còn xuất bản cả tự điển chuyên ngành, mỗi chữ Hán kỳ lạ đều có thể tra ra được nghĩa gốc trong tự điển. Bất cứ ai muốn nghiên cứu lịch sử thế giới suốt tám trăm năm qua thì không thể không đọc Mông Cổ bí sử.
Nhìn từ phương diện văn học, có thể xem Mông Cổ bí sử là một bản anh hùng ca. Bởi lẽ cuộc đời chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn cũng lẫy lừng ngang ngửa với Alexandros Đại đế hay Julius Caesar ở phương Tây, đồng thời cũng giàu chất sử thi không hề thua kém chiến tranh thành Troia trong thần thoại. Đúng như sử gia Kha Thiệu Mân đánh giá: “Quân của Thành Cát Tư Hãn đi vạn dặm mà cứ như ra vào cửa ngõ, từ thời Tam đại về sau chưa từng có”.
Mông Cổ bí sử là tác phẩm văn học viết đầu tiên của người Mông Cổ. Đây cũng là một tác phẩm sử học, ghi chép quá trình hình thành và phát triển của các bộ tộc trên thảo nguyên, từ giai đoạn khởi thủy cho đến năm thứ mười hai đời Nguyên Thái Tông Oa Khoát Đài (1240). Trong đó, nổi bật hơn cả là sự trỗi dậy của Đế quốc Mông Cổ với những cuộc chinh phạt khắp bốn phương do Thành Cát Tư Hãn chỉ huy.
Đúng như tên gọi, bộ sách này vốn là tài liệu bí mật của Mông Cổ và sau đó là triều đình nhà Nguyên, chỉ gìn giữ trong hoàng cung, không cho truyền ra bên ngoài. Sau khi lật đổ nhà Nguyên và chiếm lấy Đại Đô, nhà Minh tìm thấy bộ Mông Cổ bí sử. Đáng chú ý là toàn văn viết bằng chữ Hán, các văn nhân người Hán nhìn chữ nào cũng biết, nhưng đọc lên thì chẳng hiểu được câu nào!
Thì ra sách này dùng chữ Hán để ghi âm tiếng Mông Cổ, tựa đề viết tám chữ Mang Hoát Luân nữu sát thoát sát an (Mongqol-un niuča tobča’an, 忙豁侖紐察脫察安). Trong đó, Mang Hoát Luân (Mongqol-un, 忙豁侖) là Mông Cổ, nữu sát (niuča, 紐察) có nghĩa là bí mật và thoát sát an (tobča’an, 脫察安) có nghĩa là tài liệu. Cả cụm từ nghĩa là“Tài liệu bí mật của Mông Cổ”.
Có thể nói, Mông Cổ bí sử là một bộ sách hết sức đặc biệt, được nhà văn Kim Dung gọi là “hữu tự thiên thư”. Trong bài Hậu ký của tiểu thuyết Xạ điêu anh hùng truyện, Kim Dung viết:
Trên thế giới có rất nhiều học giả dùng cả đời để nghiền ngẫm và nghiên cứu, công bố hàng loạt luận văn, sách chuyên đề, giải thích âm đọc, thậm chí còn xuất bản cả tự điển chuyên ngành, mỗi chữ Hán kỳ lạ đều có thể tra ra được nghĩa gốc trong tự điển. Bất cứ ai muốn nghiên cứu lịch sử thế giới suốt tám trăm năm qua thì không thể không đọc Mông Cổ bí sử.
Nhìn từ phương diện văn học, có thể xem Mông Cổ bí sử là một bản anh hùng ca. Bởi lẽ cuộc đời chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn cũng lẫy lừng ngang ngửa với Alexandros Đại đế hay Julius Caesar ở phương Tây, đồng thời cũng giàu chất sử thi không hề thua kém chiến tranh thành Troia trong thần thoại. Đúng như sử gia Kha Thiệu Mân đánh giá: “Quân của Thành Cát Tư Hãn đi vạn dặm mà cứ như ra vào cửa ngõ, từ thời Tam đại về sau chưa từng có”.